Tháng
11 là tháng cầu cho các linh hồn. Tháng báo hiếu, là cơ hội để nhớ đến
ông bà tổ tiên và những người thân. Tháng 11 cũng là tháng chúng ta nhớ
đến những tấm thân cát bụi, phận người.
Ca khúc “Cát bụi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã làm bao con tim rung động thổn thức:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi”
Người nghệ sĩ thiên tài về tình yêu và thân phận con người ấy, đã trở về cõi thiên thu. “Thân cát bụi” lại trở về làm “cát bụi”. Người nghệ sĩ tài ba ấy đã mãi mãi ra đi, nhưng đã để lại cho đời một bài ca bất hủ về “cát bụi phận người”. Đó cũng là điều để cho ta đối mặt với thực tế cuộc đời: sinh-ký-tử-quy.
Con người
được dựng nên từ tro bụi. Thế nhưng qua bàn tay Thiên Chúa, tro bụi ấy
trở thành một tuyệt tác! Tro bụi ấy đã hoá thành kiếp con người, để bước
vào đời, bước vào cõi linh thiêng! Chính nhờ tình yêu mà Chúa đã cho
chúng ta hồng phúc làm con Chúa.
Do vậy,
đối với Thiên Chúa, con người chẳng là gì, chỉ là hạt cát bụi giữa biển
trời mênh mông. Con người mang thân phận mỏng dòn, một thụ tạo yếu đuối
trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nhờ lượng hải hà của Thiên Chúa, từ bụi đất
Chúa tạo dựng con người gồm hồn và xác. Chúa đã phú ban cho họ một tâm
hồn và một trái tim biết yêu thương. Vì vậy, con người luôn luôn phải ý
thức rằng mình là thọ tạo, là hư vô, để luôn luôn khiêm tốn trước Thiên
Chúa toàn năng cao cả.
I. CẦN NHỚ ĐẾN CÁI HỮU HẠN CỦA MÌNH
1. Dù con chẳng là chi mà Chúa vẫn yêu thương.
Con người
được Thiên Chúa dựng nên từ bụi đất, từ hư không và bụi đất ấy đã trở
thành một tuyệt tác của Ngài. Ngài đặt vào đó tình yêu và sự sống, để
rồi từ “bụi đất” hoá thành con người có hơi thở, có sự sống, có linh hồn bất tử.
Con người
đã trở nên tác phẩm tình yêu duy nhất của Thiên Chúa ở thế trần này.
Chính nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa mà con người đã được dựng nên
không chỉ theo dáng vẻ bề ngoài, nhưng còn được mang hình ảnh của Thiên
Chúa.
Một “cát bụi phận người” được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa và được trao quyền cai quản vũ trụ muôn loài, nên “cát bụi”
có thể ngỏ lời, mặc cả, phân bua với Thiên Chúa, Đấng dựng nên mình.
Bởi vì, Thiên Chúa tạo dựng con người không phải để huỷ diệt, nhưng để
sống bất diệt.
Đứng trước tình yêu vô biên ấy, con người cảm thấy ngỡ ngàng, băn khoăn, thắc mắc:
“Lạy Chúa con người có là chi mà Chúa cần nhớ đến?
Phàm nhân đáng là gì mà Chúa phải lưu tâm?
Ấy con người khác chi hơi thở,
Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (Tv 144,3-4).
Và Thiên Chúa trả lời,Ta đã đem lòng sùng ái con người vì nó được dựng nên giống hình ảnh của Ta.
2. Noi gương Mẹ Maria hoàn toàn tín thác vào Chúa.
Mẹ luôn luôn ý thức được thân phận thấp hèn của mình. Mẹ luôn “biết mình là ai và biết mình được Thiên Chúa yêu thương”
là cái biết quan trọng để an tâm bước đi trong hành trình cuộc đời. Đức
Maria đã đi đúng con đường biết bằng lý trí và biết bằng con tim. Do
đó, “cuộc đời của Mẹ luôn luôn quý hướng về Đức Giêsu”. Chính vì thế, Mẹ luôn luôn vâng theo thánh ý Chúa: “Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói” (Lc 1,38).
Còn Đức
Maria với sự khiêm tốn, tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa, Mẹ đã hoàn
toàn để Chúa điều khiển cuộc đời mình. Khác với hai nguyên tổ đã nghe
theo lời con rắn dụ dỗ và đã ăn trái cấm để mong được bằng và hơn Thiên
Chúa. Mẹ đã nhận ra thân phận yếu đuối, giới hạn của mình, để cho Thiên
Chúa thực hiện kế hoạch của Ngài.
Đứng
trước hình ảnh của Đức Maria, chúng ta càng thấy được tình yêu vô biên
của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài đã xót thương và khấng ban lời
hứa cứu độ cho nhân loại ngay khi con người đã xúc phạm đến Chúa, để cho
thân phận con người được chìm đắm trong tình yêu của Ngài.
II. TINH THẦN HĂNG HÁI, THÂN XÁC YẾU ĐUỐI
1. Con người thân phận mỏng dòn
Con người
được Thiên Chúa mời gọi để bước vào cõi sống này. Đó là hồng ân Thiên
Chúa trao tặng cho con người. Nhưng không mấy ai trong chúng ta cảm nhận
được hồng ân sự sống ấy. Vì vậy, R.D Wahnheit mới nói: “chỉ những ai đang hấp hối trên giường bệnh, mới hiểu được thế nào là giá trị của sự sống”. Do vậy, con người cần phải tôn trọng sự sống của mình. Bởi vì, không ai trong chúng ta có thể làm chủ sự sống của mình được.
Hơn bao
giờ hết, thân phận con người thật mỏng dòn, yếu đuối và mong manh như
cánh hoa sớm nở chiều tàn, chỉ một cơn gió thoảng qua, cũng làm nó biến
mất. Điều đó cho thấy, thân phận của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào
Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người, bao bọc chở che như cục đất
sét trong tay ngừơi thợ gốm, được nhào nặn, được giữ gìn, được nâng
niu.
Từ thân
phận cát bụi, Thiên Chúa cũng đã trao ban cho thân phận ấy đủ các vai
diễn của mình trên sân khấu cuộc đời. Thế nhưng, sau những vai diễn ấy,
con người cũng chỉ cảm thấy trống vắng, mệt nhoài, bấp bênh của kiếp con
người. Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua cũng chỉ là nắm cỏ khâu xanh
rì.
Rốt cuộc, cuộc đời này cũng chỉ là một sự tạm bợ chóng qua, ở đợ một quán trọ đơn nghèo: “trăm năm về chốn xa xăm suốt đời” (Ở trọ_ Trịnh Công Sơn). Thân phận mỏng dòn là thế! Không biết vận mạng của mình như thế nào, để rồi chạy đến cùng Thiên Chúa mà kêu lên:
“Lạy Chúa, xin dạy con biết:
Đời sống con chung cuộc thế nào
Ngày tháng con đếm được mấy mươi
Để hiểu rằng, kiếp phù du là thế” (Tv 39,5).
2. Điều tôi muốn tôi lại không làm (Rm 7,15)
Con người
muốn tự khẳng định mình, muốn mình được biết tất cả, trở nên khôn
ngoan, nên đã rơi vào cạm bẫy của ma quỷ. Bằng chứng là con người đã
nghe theo lời dụ dỗ của con rắn (x.St 3,1-7). Chính vì tính yếu đuối,
con người đã làm cho tội lỗi lan tràn khắp thế gian này.
Con người
càng ngày càng ôm nhiều tham vọng, ham hố, đam mê những thú vui trần
tục. Một thân phận mỏng dòn,yếu đuối, giới hạn nhưng lại ước vọng không
cùng. Chính vì vậy, con người trở nên kiêu căng, tự đại mà không còn nhớ
tới ân nghĩa của Chúa.
Chính vì điều này, thánh Phaolô đã thú nhận với cộng đoàn Rôma: “Điều
tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm…Sự
thiện tôi muốn thì tôi không làm, sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ
làm. Nếu cứ làm điều tôi không muốn thì không phải chính tôi làm điều
đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7, 15.19-20).
Hơn ai
hết, thánh Phaolô đã cho thấy rõ những bất toàn của bản thân mình để rồi
thánh nhân không bao giờ dám tự cao tự đại trước nhan Thiên Chúa: “Và
để tôi khỏi tự cao, tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đón nhận
được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan
được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2Cr,12,7). Một khi ý thức những yếu đuối và hạn chế của bản thân, con người được mời gọi tín thác vào Chúa.
III. LẠY CHÚA, CON TRÔNG CẬY CHÚA
1. Nhận ra mình bất toàn
Sau những
chặng đường dài của cuộc đời, con người cũng chẳng kiếm tìm được gì,
chỉ là một sự tuyệt vọng nối tiếp tuyệt vọng. Một sự chán chường của
kiếp người với những mệt nhoài, đau thương, khắc khoải. Một đời sống
chạy theo vật chất chóng qua, nên con người cũng cảm thấy trống vắng
trong tâm hồn. Rốt cuộc cũng phải kêu lên:
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,2).
Kinh
nghiệm của thánh Augustinô sau những năm tháng đi hoang, chạy theo danh
vọng, chạy theo đam mê xác thịt, cuối cùng ngài cũng nhận ra một thực tế
đời người: “tâm hồn con cứ khắc khoải ưu tư cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”.
Càng
trong lúc tuyệt vọng không còn gì để hy vọng thì chúng ta lại càng phải
trông cậy vào Chúa, để Ngài chiếm lấy chúng ta. Bởi vì, bí nhiệm hy vọng
không phải là bí nhiệm của sức mạnh nhưng chỉ là bí nhiệm của bất lực.
Do vậy, càng trong những lúc bất lực chúng ta phải để cho Chúa chiếm
hữu.
Chỉ khi
nào con người nhận ra được giới hạn của mình thì mới thấy được một Thiên
Chúa toàn năng. Con người nhận ra được yếu đuối của mình thì mới thấy
được sức mạnh của Thiên Chúa. Con người nhận ra được bất lực của mình,
thì mới thấy được sự khôn ngoan của Thiên Chúa, bởi vì con người được
Thiên Chúa tạo dựng nên, cho nên Người thông suốt tất cả:
“Lòng mỗi người chính Chúa dựng nên
Việc họ làm Chúa thông suốt cả” (Tv 32,15).
2. Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi (2Cr 10,30)
Điều quan
trọng, ý thức được sự yếu đuối của mình, để biết cậy trông vào Chúa.
Nhất là càng không nên mặc cảm với những yếu đuối của mình, mà phải chân
nhận nó như là một thực tại hiển nhiên. Chính điều đó, thánh Phaolô đã
phải thú nhận rằng: Nếu có đáng khoe khoang, tôi phải khoe khoang con người tầm thường, dòn mỏng, dễ mang thương tích.
(x. 2Cr 12,5-6). Do vậy, khi con người càng thấy mình giới hạn bao
nhiêu, thì càng phải tin tưởng và phó thác vào Chúa bằng sự khiêm nhường
thật sự. Con người cần phải dám sẵn sàng để cho Thiên Chúa chiếm hữu
trong sự yếu đuối của mình.
Có thể nói, thánh Phaolô dám can đảm khoe khoang về sự yếu đuối của mình chính là nhờ vào ơn Chúa: “Ơn Thầy đủ cho anh” (2 Cr 12,9). Và đó cũng là chỗ dựa vững chắc cho vị tông đồ dân ngoại: “vì
vậy, tôi cảm thấy vui mừng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, khốn
quẫn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Quả thực, khi tôi yếu, chính là lúc
tôi mạnh” (2 Cr 12,10).
Thay lời kết: Ôi cát bụi phận người!
Một buổi
sáng ngày mùng 2 tháng 11, tôi đi dâng lễ cộng đoàn qua hai nghĩa trang
Gx Thanh Hoá và Thái Hoà, toạ lạc bên vệ đường. Nhìn vào, tôi ngạc nhiên
khi giữa đêm đen xuất hiện một khung cảnh thật linh thánh. Một ngọn
nến, hai ngọn nến, và rất nhiều ngọn nến lung linh. Những lẵng hoa tươi
đặt trên mộ phần của người thân. Người sống bên cạnh người chết trong
làn khói mờ mờ ảo ảo từ những nén hương nghi ngút bay lên. Trong khung
cảnh linh thánh này làm cho tôi tưởng nhớ phụ mẫu của tôi cũng như phụ
mẫu của những người thân của tôi đã nằm xuống. Tôi chợt nghĩ tháng các
linh hồn có thể gọi là “tháng báo ân”.
Nghĩa
trang ngày hôm đó không chỉ là những mộ phần lạnh lẽo mà có cả người
thân yêu bên cạnh. Từ khung cảnh đó gieo vào lòng người niềm hy vọng.
Chết không phải là hết nhưng là cánh cửa mở vào một cuộc sống mới. Điều
đó khiến chúng ta phải reo lên: “Ôi cát bụi phận người!”.
Chỉ khi
nào con người biết nhận ra được giới hạn của mình để biết cậy trông vào
Chúa. Chỉ khi nào trở về bên Chúa, thì chúng ta mới hiểu được tình Chúa
như thế nào. Ước chi, trong những giây phút yếu đuối, tuyệt vọng… chúng
ta biết chạy đến cùng Thiên Chúa, phó thác, trông cậy, tín thác vào tình
yêu của Thiên Chúa. Ước chi mỗi khi đứng thinh lặng trước mộ phần của
người thân cũng giúp chúng ta khám phá ra tình yêu Chúa trước những mong
manh của phận người.
Không nên
bi quan, mặc cảm về những yếu đuối của mình mà trở nên buồn sầu ủ rũ,
nhưng phải hi vọng vào Chúa, để nhận ra sự quan phòng của Chúa. Trong
niềm vui trở về nhà Cha:
“Khi
Chúa thương gọi tôi về. Hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ, miệng
tôi nức vui tiếng cười. Lưởi tôi vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô. Tôi
thật hạnh phúc.”[1]
…………………………………………………
[1]
Lm. Ns Kim Long lúc còn là chủng sinh đã nhập ngũ. Ngày giãi ngũ, cha
đã trở về Đại chủng viện Sài Gòn và đã sáng tác bài này. Tội nghiệp cho
ngài, bài nhạc này diễn đạt niềm vui trở về chủng viện thì nay lại được
sử dụng trong các lễ an táng như là niềm vui trở về nhà Cha.
Linh mục Đaminh Đinh Viết Tiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét