Thánh
Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste miền Numidia nay
là Souk-Akras nước Algeria. Ông Patricô, cha ngài là một tiểu nông và là
nghị viên thành phố. Ong là lương dân và chỉ theo đạo vào lúc cuối đời.
Mẹ Ngài là thánh Monica đã nhờ kinh nguyện, lòng nhẫn nại và tình yêu
không biết mệt mỏi đã cải hoá con. Theo thói quen thời đó, Augustinô
thuộc vào số những ứng viên lãnh phép rửa tội, nhưng lại trì hoãn để
tránh nguy cơ phạm tội, Ngài chỉ được thánh Ambrosiô rửa tội cho sau khi
trở lại vào tuổi 32.
Augustinô
đã theo học những lớp về văn chương tại Thagaste và Madaura, cuối cùng
Ngài theo học khoa tu từ tại Carthage. Đời sống luân lý của Ngài vào
thời kỳ này không đến nỗi tồi tệ mà có lẽ khá hơn nhiều những thanh niên
cùng thời và chúng ta không nên gắt gao kết án lối cư xử của Ngài theo
sát chữ viết trong cuốn “tự thuật”, chắc chắn Ngài có một tình nhân và
trung tín với nàng cho tới năm 385. Ngài đã có với nàng một người con
tên là Adcodatus cũng vào thời này Ngài trở thành người theo phái
Manichêô.
Năm
383, Augustinô đến Roma dạy tu từ và năm 384 có được một địa sở tại
Milan. Lúc này Ngài đã thấu suốt được thuyết Manichêô và rơi vào tình
trạng nghi nan bất định. Tại Milan Ngài có dịp tiếp xúc với vị giám mục
thời danh của giáo phận nầy là thánh Ambrosiô. Các bài giảng của thánh
nhân cho Ngài thấy lần đầu tiên rằng Ngài có thể tin vào Thánh Kinh như
sự giải thích của Giáo hội mà không phải hy sinh sự hiểu biết của mình.
Ngài còn đọc sách của những nhà tân học phái Platôn như Plotinê và Per
phyry, Những sách đã chữa cho Ngài khỏi thuyết duy vật của Manichêô và
đưa Ngài vào triết học linh thiêng hơn, phù hợp với mạc khải Kitô giáo.
Augustinô
đã xác tín về sự chân thật của Kitô giáo vẫn chưa đi đến bước quyết
định, cho tới tháng 9 năm 386 khi Ngài trải qua một kinh nghiệm bất ngờ
nhưng được chuẩn bị từ trước. Ngài đã trình bày kinh nghiệm ấy trong
cuốn VIII bộ “tự thuật”. Đây là cuộc trở lại Kitô giáo lẫn cuộc sống khổ
hạnh đã theo đuổi bậc trọn lành. Bỏ nghề, Ngài lui về Cassiciacum, gần
Milan, cùng thánh nữ Monica mẹ Ngài và Adeodatus con Ngài, với một số
bạn bè. Tại đây, Ngài bắt đầu viết và xuất bản một số tác phẩm và trau
dồi về triết học, những tác phẩm đầu tiên của Ngài.
Ngài
được thánh Ambrosiô rửa tội vào lễ phục sinh năm 387 rồi cùng mẹ và các
bạn trở về Phi Châu. Thánh nữ Monica qua đời trên đường về tại Ostia.
Tại Phi Châu theo lời khuyên của Đức Cha Valêriô địa phận Kippô, Ngài
xin làm linh mục và được thụ phong năm 391. Năm 395, Ngài được tấn phong
làm giám mục phụ tá và chẳng bao lâu sau lên kế vị đức cha Valêriô làm
giám mục Hippô. 35 năm còn lại, Ngài bận rộn với công việc mệt nhọc của
một giám mục địa phận, đồng thời vẫn dành giờ để trước tác. Ngoài tác
phẩm được biết nhiều là bộ “tự thuật” còn nhiều tác phẩm thần học của
Ngài (gồm 96 cuốn không kể các bài giảng và thư tín) đã mang lại sức
sống mãnh liệt cho Giáo hội thời đó lẫn ngày nay.
Thánh
Augustinô sống đời tu viện với hàng giáo sĩ và làm mọi sự để khích lệ
việc canh tân các cộng đoàn tu sĩ. Hai bài giảng về đời sống khổ hạnh
trong cộng đoàn và một bức thư dài về các nguyên tắc mà Ngài viết cho
các cộng đoàn nữ tu do Ngài thành lập và em Ngài là bề trên tiên khởi,
làm thành “luật thánh Augustinô”.
Thánh
Possidiô bạn Ngài đã viết một bản tường thuật rất hay về đời giám mục
của thánh Augustinô. Bản tường thuật này cho thấy Ngài là một người rất
nhân bản, dễ thương và giàu lòng bác ái, tận tụy phục vụ cộng đoàn,
thích sống nghèo khó nhưng lại hiếu khách. Chỉ có một điều Ngài không
thể tha thứ được là gương mù tại bàn ăn. Ngài luôn dấn thân vào việc
bệnh vực Giáo hội chống lại các người theo lạc giáo như những người theo
phái Manichêô, Phômatô, Pêlagiô. Cuộc tranh luận với Pêlagiô đã để lại
những bút tích của thánh Augustinô về ơn thánh. Với ảnh hưởng lớn lao
trong Giáo hội sau này. Dầu nhiệt tâm chống lại lạc thuyết, thánh
Augustinô vẫn luôn lịch sự và thân ái khi đối thoại với các người theo
lạc giáo.
Thánh
Augustinô đã sống để chứng kiến cuộc xâm lược man rợ của người Vandal
vào Phi Châu bắt đầu từ năm429. Ngày 28 tháng 8 năm 430 Ngài từ trần,
hưởng thọ 76 tuổi, Ngài không để lại chúc thư vì không có tài sản gì.
Nhưng kể từ khi qua đời tới nay, di sản tư tưởng của Ngài được ghi nhận
là phong phú nhất sau thánh Phaolô.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét