Thánh PHÊRÔ TÔNG ĐỒ
Phêrô
là tên mà Chúa đặt cho Simon, có nghĩa là “Đá” Simon và Anrê em ông là
những dân chài chất phác ở biển Galilea. Anrê theo làm môn đệ của thánh
Gioan tẩy giả. Lần kia, khi Chúa Giêsu đi qua, thánh Gioan đã giới thiệu
với hai môn đệ của mình là Anrê và Gioan: “Đây là Con Thiên Chúa”.
Anrê
và Gioan liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê nói lại với Phêrô rằng:
mình đã gặp Đấng thiên sai. Hai anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu. Nhìn
họ với cặp mắt thần linh, Chúa Giêsu bảo: – Anh là Simon, nhưng từ nay
tên là Phêrô (Ga 1,35-42)
Simon
Phêrô gắn bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn tiếp tục nghề chài lưới. Ông
đến được tiệc cưới tại Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa
Giêsu cho thấy thiên tính của Người.
Vài
tháng sau, Phêrô và Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên một chiếc
thuyền để giảng dạy dân chúng. Sau đó Người nói với Phêrô: – Ra khơi mà
thả lưới đánh cá.
Sau
một đêm làm việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô vẫn mau mắn
vâng lời. Kết quả thật lạ lùng, mẻ cá nhiều quá đến như muốn làm rách
lưới. Bối rối trước sự lạ và cảm thấy mình bất xứng không đáng ở gần
Chúa Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người mà nói: – “Xin hãy xa tôi vì
tôi là kẻ tội lỗi”.
Chúa Giêsu trả lời: – “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người” .
Rồi
đây ông sẽ lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như số cá nhiều vô kể ông
đã lưới được. Ông đã từ bỏ tất cả : gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa
Giêsu. Khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào đầu
tháng 4, sau khi hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ
qua bên kia bờ hồ. Gió nổi lên dữ dội : Chúa Giêsu đến với các ông. Mệt
nhọc chèo chống ngược gió trong đêm tối, các ông tưởng là bóng ma và lên
tiếng kêu la. Chúa Giêsu trấn an: – “Hãy vững lòng, chính là Ta, đừng
sợ”.
Phêrô liền kêu ngay : – “Lạy Thày, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến với thày”.
Người bảo : – “Hãy đến đây”.
Và
Phêrô gieo mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin tưởng ban
đầu, thấy gió thổi mạnh, ông sợ và bắt đầu chìm xuống hốt hoảng ông kêu
cứu : – “Lạy Chúa xin cứu tôi”. Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông và trách
ông đã yếu tin (Mt 6,22-33)
Hôm
sau, Chúa Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể lần đầu tiên. Một số môn
đệ bỏ đi, lúc đó Người quay lại hỏi các tông đồ xem có muốn bỏ đi không
? Phêrô trung tín đáp lời: – “Lạy Ngài, chúng tôi sẽ bỏ đi theo ai,
Ngài có những lời mang đến sự sống đời đời” (Ga 6,67-68)
Một năm sau Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ: – “Còn các anh, các anh nói tôi là ai ?”
Mau mắn, Phêrô đã chứng tỏ đức tin của mình : – “Ngài là đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đáp
lại, Chúa Giêsu đã khen thưởng Phêrô và hứa hẹn : – “Và Ta, Ta bảo
ngươi. Ngươi là đá và trên đá này. Ta sẽ xây Hội Thánh của ta, và quyền
môn Âm phủ sẽ không thắng nổi. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khoá nước trời,
và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên Trời,
và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời”
(Mt 16,13-19)
Phêrô
đã nhận được lời khen thưởng và lời hứa hẹn rất cao trọng. Nhưng khi
nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới, ông đã vội vàng can
ngăn, khiến Chúa Giêsu phải quở trách ông. Đức tin của ông chưa thực sự
kiên vững như đá. Phải còn qua nhiều thăng trầm nữa, Phêrô mới thực sự
trở thành mẫu người thủ lãnh của Giáo hội.
Nhằm
đào tạo ông, Chúa Giêsu đã cho ông trực tiếp tham gia vào cuộc phục
sinh cho con gái ông Giairô (Mc 5,37). Bấy giờ, Người dẫn các ông lên
núi để cho chứng kiến cuộc biến hình đầy uy nghi sáng láng như mặt trời,
áo Người với Môsê và Elia ; đã nghe tiếng nói từ trời cao nhắn nhủ: –
“Ngài là con chí ái của ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe lời
Người” (Mt 17,1-8).
Những
săn sóc đặc biệt kia phải gây ảnh hưởng mạnh nơi tâm hồn Phêrô. Một lần
kia khi có người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu mà không theo
Chúa được chỉ vì của cải. Phêrô đã mạnh dạn thưa: – “Này chúng con đã bỏ
mọi sự mà theo Thày” (Mt 19,27)
Đối
với ông chỉ có điều này là quan trọng. Còn nhiều điều ông chưa hiểu
được, chẳng hạn như việc Thày khiêm tốn quỳ xuống rửa chân cho các tông
đồ ngày thứ năm tuần thánh (Ga 13,7)
Tuy
nhiên Phêrô vẫn xác tín vào điều kiện cấp thiết phải trung kiên theo
Chúa. Ông đã thưa với Chúa trọn cả tâm tình quả cảm của mình : – “Tôi sẽ
thí mạng sống tôi vì thày”.
Dĩ
nhiện nhiệt tình còn phải được chứng nghiệm bởi việc làm. Phêrô chưa
biết, chưa lượng định nổi khả năng của mình. Đầy cảm thông Chúa Giêsu
báo trước cho ông biết rằng: – “Quả thật, ta bảo ngươi : gà sẽ không gáy
cho tới lúc ngươi sẽ chối Ta ba lần” (Ga 13,36-38)
Cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu, Phêrô rút gươm chém đứt tai một binh
lính để mong bảo vệ Thày. Sau hành vi bộc phát ấy, Phêrô như nhụt hết
nhuệ khí cùng với lưỡi gươm, ông trút trở lại bao theo lời thày, đúng
như lời tiên tri báo trước, ba ần ông đã chối thày. Gà lên tiếng gáy,
Chúa Giêsu nhìn lại và Phêrô bừng tỉnh và hối hận nước mắt chảy dài (Ga
18,1-27)
Sau
cuộc khổ nạn và tử nạn, Chúa Giêsu sống lại, hiện ra nhiều lần. Tại bờ
hồ Tibêria, Người đã hiện ra với Phêrô và các bạn khi họ đang thả lưới
đánh cá. Gioan nhận ra Người và nhắn nhủ cho Phêrô biết : – “Chúa đó”.
Với
một nhiệt tình xưa, Phêrô vội cuốn áo gieo mình xuống biển đến gặp
thầy. Ba lần Chúa Giêsu đã hỏi ông: – Con có mến Thày không ?
Phêrô trả lời : – Lạy Chúa, Chúa thông biết mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa
Ba lần xác quyết tình yêu xóa bỏ ba lần chối Chúa. Lúc ấy Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh cho ông : – “Hãy chăn dắt đoàn chiên Ta”.
Và
Người thêm : – “Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu
tuỳ ý, nhưng khi đã về già, ngươi sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt
lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn” (Ga 21,15-18)
Từ
đây Phêrô lãnh nhiệm vụ điều khiển cộng đoàn. Ngài đã đề nghị chọn một
tông đồ thế chân cho Giuda. Ngày lễ Hiện xuống, Ngài là tông đồ đầu tiên
công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô phục sinh 3000 người trở lại
sau bài giảng ấy. Thật là một mẻ lưới lạ lùng.
Tại
cửa đền thờ, Phêrô thấy một người què từ lúc mới sinh, Ngài nói với hắn
: – “Vàng bạc tôi không có, song có gì tôi cho anh : nhân danh đức
Giêsu Kitô người Nazareth, anh hãy bước đi.
Người
què liền khỏi bệnh và nhảy lên vì vui sướng. Sau phép lạ này, thánh
Phêrô giảng lần thứ hai cho dân. Lần này số người trở lại lên tới 5000
người. Thành công lớn lao này một cho các đầu mục trong dân bực tức. Họ
cấm các tông đồ không được rao giảng về Chúa Kitô nữa. Nhưng đầy can đảm
thánh Phêrô trả lời : – Vâng lời các ông hơn là vâng lời Thiên Chúa có
phải lẽ không ?
Các
tín hữu quây quần bên các thánh tông đồ, họ mang của cải đặt dưới chân
các Ngài để mưu ích chung cho mọi người. Annaya và Saphira tiếc của còn
muốn nên danh giá. Vợ chồng hắn nói dối là đã dâng hết, khiến lần lượt
họ ngã chết ngay dưới chân Phêrô (Cv 5,1-11). Các phép lạ Ngài thực hiện
ngày càng nhiều: tại Lyda, Ênêa liệt giường được lành mạnh, tại Giophê,
chị Tabihta đã chết hai ngày được sống lại. Bóng của Ngài cũng chữa
lành các bệnh nhân.
Thánh
Phêrô rảo khắp xứ Giudea rao giảng nước Chúa. Ngài bị Hêrôđê ra lệnh
tống giam, nhưng đã được cứu thoát cách lạ lùng. Ngài chủ tọa công đồng
Gierusalem, quyết định rằng: các lương dân gia nhập Kitô giáo không phải
giữ luật cắt bì.
Thánh
Phêrô còn đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới Antiôkia, xây
dựng Giáo hội tại đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành trung
tâm của Kitô giáo. Thời Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại.
Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài
trốn đi khỏi thành.
Nhưng vừa tới cửa, Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến vào, thánh tông đồ hỏi Chúa : – Thày đi đâu dây ?
– Ta vào Roma để chịu đóng đinh một lần nưã.
Thánh
tông đồ đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng đinh thập giá.
Theo chứng của Origênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn đầu xuống
đất vì thấy mình không đáng được chết cùng một cách như Thày.
+ Mộ Ngài được tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma ngày nay.
Thánh PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
Phaolô
thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Kitô hữu
tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu
hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy.
Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong
Giáo hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu
dàng như Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn.
Nhưng
rồi cuối cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và
tình thương mến. Đó là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm
thấy đối nghịch với Phaolô, rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong
các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài thật là một con người bất khuất,
trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp
vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất nhân bản và sự thánh
thiện hàm ẩn của Ngài.
Thánh Phaolô sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á.
Cha
mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được giáo
dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel
dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh
này khi anh về Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu bị đóng
đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước
được. Mọi người đều biết là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử đạo
thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình.
Chẳng
bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phoalô) đã được thấy
Chúa Giêsu phục sinh. Người biến đổi Phaolô từ một kẻ bách hại thành
một lãnh tụ Kitô giáo.
Ngay
sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc để suy nghĩ
cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi
ba năm sau, Phaolô mớilên Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh
nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm (34 – 44). Chúng ta không
thấy Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực
của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do
thái giáo với Kitô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết
này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.
Dĩ
nhiên thánh Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương
dân. Thánh Phêrô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao giảng
Tin Mừng ở Samaria và rửa tội cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc
rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở
Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Barnaba được các tông đồ sai đi
xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô
còn đang sống âm thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh Phaolô trở về
Antiôkia với thánh Barbnaba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công
cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của Maria và lãnh lấy vai trò của
Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng
thuyết.
Hết
cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phaolô không
ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre,
Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn
giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá,
đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn
tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh
kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một
trung tâm Kitô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do
thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.
Năm
57, thánh Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết
rằng: hội đồng công tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé
không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng
một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô
lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh
người Rôma. Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền
Rôma muốn được qùa hối lộ). Trong thời gian này, Phaolô vẫn dùng cơ hội
thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.
Bị
áp bức bởi Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công
dân Rôma) và được gởi về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển
Malta. Dip này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường
hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61 ) đoàn người tới thủ đô.
Thánh Phêrô đã có mặt ở đây và Phaolô lui vào bóng tối. Về những chuyến
du hành của Phaolô đi Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ
tài liệu. Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời
Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontana.
Khi
Phaolô tới Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích
đã được cử hành, cólẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần
đóng góp của Phaolô như là cột trụ Chúa Giáo hội ?
Trước
hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân. Nhưng
phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của
Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không
thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo
thuyết. Thực ra nói “giáo thuyết của Phaolô” thì không chính xác lắm,
Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã
lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói ” Chúa Giêsu là đức Kitô” Ngài dựa ra
một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội
là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môisê. Đức Kitô là Adam mới, là
“hình ảnh” hoàn hảo của Thiên Chúa.
Từ
lời gọi “Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA ?” Ngài đã khai triển giáo
thuyết về nhiệm thể : “đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người” (Cl
3,11). Từ dụ ngôn những người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy
Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay thế bởi Giêrusalem mới “nơi không còn
lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia, nô lệ hay tự do”
Có
lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu
biểu nhất của Phaolô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại.
Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như thánh Phaolô thì không chịu thỏa
hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công
giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét