Năm nay (2015), ngày khởi đầu “tuần lễ
cầu cho sự hiệp nhất Kitô giáo” là Chúa Nhật II Thường Niên (năm B), và
đặc biệt là dịp chúng ta cùng với hàng triệu Kitô hữu trên thế giới vui
mừng kỷ niệm lần thứ 100 của Tuần Hiệp Nhất.
Ước muốn hiệp nhất Kitô giáo là sự thật
về phong trào đại kết, sự hiệp nhất bắt nguồn từ Đức Kitô. Ngài đã bày
tỏ rõ ràng trong lời cầu nguyện tại Bữa Tiệc Ly, trước khi Ngài chịu khổ
nạn:
“Lạy Cha, Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một,
như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như
vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17:20-21).
Cầu nguyện là điều cần thiết trước khi làm bất cứ việc gì, như tác giả Thánh Vịnh xác định: “Ví
như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà
Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm. Bạn có thức
khuya hay dậy sớm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ được Chúa
thương dầu có ngủ, Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng” (Tv 127:1-2).
Việc xây “Nhà Hiệp Nhất Kitô Giáo” là việc chung, nhưng nếu không được
Chúa Giêsu giúp đỡ thì cũng luống công vô ích. Thật vậy, chính Ngài đã
nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất Kitô giáo
hàng năm từ ngày 18 tới 25 thánh Một, do các Tu sĩ Dòng Phanxicô Hoa Kỳ
khởi xướng, họ thuộc Tân giáo (Episcopalian Communion) hoặc Anh giáo
(Anglican Communion). Họ là Lm Paul Wattson và Nt Lurana White, Dòng
Phanxicô Đền Tội (Franciscan Friars and Sisters of the Atonement). Nhóm
này mau chóng trở thành Công giáo Rôma.
Thánh 1-1908, tuần lễ cầu cho sự hiệp
nhất Kitô giáo được cử hành tại nhà nguyện của nữ tu viện Phanxicô Tân
giáo, trên ngọn đồi cách TP New York 50 dặm về phía Bắc. Lm Wattson và
các tu sĩ nam nữ Phanxicô cảm thấy rằng Anh giáo nên phục hồi tính Công
giáo bằng cách tìm kiếm một dạng “hiệp nhất” nào đó với Đức giáo hoàng ở
Rôma. Các tu sĩ này thấy có sự đáp lại từ phía Rôma bằng cách hiệp
thông hoàn toàn từ năm 1909.
Từ đầu, ngày 18 được chọn là ngày mở đầu
Tuần Hiệp Nhất vì hồi đó ngày này là lễ Tông Tòa Thánh Phêrô tại Rôma.
Thập niên 1930, Lm Paul Couturier, người Pháp, cổ vũ sự hiệp nhất Kitô
giáo nên khuyên cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo như Chúa Giêsu
mong muốn.
Năm 1964, Công đồng Vatican II đã ban
hành sắc lệnh về đại kết, khuyến khích người Công giáo “cầu nguyện cùng
với các anh em ly khai” và nhận biết các cộng đồng Kitô giáo khác. Năm
1968, Tuần Hiệp Nhất chính thức được gọi là “Tuần lễ Cầu nguyện cho sự
Hiệp nhất Kitô giáo”. Tuần lễ này là “tám ngày suy nghĩ về sự thay đổi
của chúng ta trong Đức Giêsu Kitô”.
Ngày thứ nhất: Thay đổi nhờ Người Tôi Trung là Đức Kitô.
Ngày thứ nhì: Thay đổi trong sự kiên nhẫn chờ đợi Chúa Giêsu.
Ngày thứ ba: Thay đổi nhờ Người Tôi Tớ Đau Khổ.
Ngày thứ tư: Thay đổi nhờ Đức Kitô chiến thắng ma quỷ.
Ngày thứ năm: Thay đổi nhờ ơn bình an của Chúa Giêsu phục sinh.
Ngày thứ sáu: Thay đổi nhờ tình yêu của Thiên Chúa.
Ngày thứ bảy: Thay đổi nhờ Chúa Chiên Lành.
Ngày thứ tám: Kết hiệp trong quyền cai trị của Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta cùng nhớ lại điều mong ước của Chúa Giêsu:
Con đã truyền lại cho họ lời của
Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con
đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian,
nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng
như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến
họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng
sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự
thật, họ cũng được thánh hiến. Con không chỉ cầu nguyện cho những người
này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một,
như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như
vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ
vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một;
như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương
họ như đã yêu thương con. Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những
người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh
quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương
con trước khi thế gian được tạo thành. Lạy Cha là Đấng công chính, thế
gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này
đã biết là chính Cha đã sai con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn
cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở
trong họ nữa” (Ga 17:14-26).
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét