Một
câu hỏi mà hầu như tất cả mọi người đều tự đặt ra cho mình trước khi
muốn thực hiện bất cứ một dự định nào đó, là làm điều ấy có lợi hay
không và lợi nhiều hay ít? Khi bỏ công sức làm điều ấy thì tôi sẽ được
gì bù lại?
Đây là một sự thắc mắc rất bình thường,
rất con người và cũng rất hợp lý, một sự thắc mắc hoàn toàn chính đáng,
vì mỗi hành động và mỗi việc làm của ta dù nhỏ mọn và bình thường đến
đâu cũng đều phải có mục đích riêng của nó.
Chúng ta từng tự hỏi mình như thế và
cũng luôn sống và hành động như thế: Tìm đạt mục đích của hành động.
Chẳng hạn khi bước vào một tiệm bán thực phẩm là để mua thức ăn, khi vào
tiệm buôn áo quần là để mua quần áo, khi vào tiệm cắt tóc là để làm đẹp
mái tóc trên đầu, khi đi thăm bác sĩ là để khám bệnh, v.v… Trong vấn đề
đức tin cũng tương tự như thế, người ta cũng tự hỏi mình, ít là lúc
khởi đầu đời sống đức tin, khi tôi tin đạo hay khi tôi tin tưởng phó
thác đời tôi cho Thiên Chúa thì tôi sẽ được gì? Cuộc đời tôi sẽ ra sao
và tương lai gần cũng như tương lai xa hay tương lai cuối cùng của đời
tôi sẽ thế nào? Hay một cách vắn tắt và tổng quát hơn: Đức tin mang lại
cho ta những gì?
Sống trên đời, ít ai làm một điều gì đó
mà không nhằm mang lại lợi lộc, hoặc cho bản thân hoặc cho xã hội nhân
quần, hoặc là lợi lộc vật chất hoặc lợi lộc tinh thần, hoặc lợi lộc
chóng qua đời nay hoặc lợi lộc siêu nhiên trường cửu.
Nhận diện những tác động của đức tin
Bởi vậy, khi nghe có ai đó nêu lên câu
hỏi tương tự, người ta không có quyền vội vàng kết án người ấy là còn
mang nặng óc vụ lợi thế gian, còn tính toán ích kỷ nhỏ nhặt với cả thiên
Chúa nữa hay chỉ nghĩ đến lợi lộc cá nhân theo kiểu trần thế, v.v…, vì
đức tin trước hết là một ơn nhưng không của Thiên Chúa ban cho con
người, và do đó người ta cần luôn phải biết cảm tạ Chúa, chứ không được
đòi hỏi kiểu thế gian. Thực ra, khi mới thoạt nghe, một sự thắc mắc như
thế có thể gây cho người nghe cảm giác nhuốm đầy sắc thái “thế gian”,
“vụ lợi”, “ích kỷ”, nhưng tự bản chất của nó, sự thắc mắc ấy là một điều
bình thường và không có gì vô lý cả.
Bởi vì, chính các Tông Đồ xưa cũng đã nêu lên với Chúa Giêsu cùng một câu hỏi ấy: “Thưa Thầy, phần chúng con, chúng con đã từ bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì bù lại?” (Mt
19,27) và Chúa Giêsu đã không hề tỏ ra ngạc nhiên hay chê trách các
Tông Đồ là trần tục hay còn vụ lợi và tính toán thế này thế kia. Trái
lại, Người đã rất thông cảm và hiểu rõ tâm lý các Môn Đệ của Người nên
đã vui vẻ và thẳng thắn trả lời sự thắc mắc chân thành ấy của họ như một
điều hoàn toàn bình thường: “Thầy bảo thật anh em: Anh em là những
người đã theo Thầy, thì đến ngày sống lại, khi Con Người ngự trên tòa
vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngồi trên mười hai tòa mà xét xử mười hai
chi tộc Ít-ra-en. Và phàm ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái
hay ruộng đất vì danh Thầy, thì sẽ được bù đắp lại gấp trăm và còn được
cuộc sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.” (Mt 19,28-29) Câu trả lời của
Chúa còn cho chúng ta thấy được rằng Người đã hứa không hề để bất cứ ai
đã từ bỏ mọi sự để theo Người phải thiệt thòi, chắc chắn Người sẽ ban
thưởng cho họ gấp trăm, và Người còn ban thưởng ngay tại đời này nữa.
Điều đó cho thấy là không ít người đã
quan niệm hoàn toàn sai lạc chương trình và thánh ý của Thiên Chúa khi
họ cho rằng làm người Kitô hữu là luôn luôn phải hy sinh, phải từ bỏ và
phải chiến thắng chính mình; tất cả những gì giúp thư giãn, giải trí hay
làm cho vui nhộn đều cần phải loại bỏ ra khỏi mọi sinh hoạt của cuộc
sống, vì họ cho rằng việc mua vui như thế chỉ để chiều chuộng xác thịt
mà thôi. Đây quả là một sự hiểu lầm, một quan niệm sai lạc nguy hiểm.
Nếu Chúa Giêsu đã đề cập tới sứ mệnh người Kitô hữu là phải biết can
đảm đối mặt với sự bắt bớ, sự đau khổ và biết vác thánh giá hằng ngày
của mình, chúng ta đừng quên rằng đức tin vào Thiên Chúa là nhằm mang
lại cho cuộc sống của ta niềm hoan lạc và sự an bình chân chính từ tận
đáy lòng, hầu chúng ta có đủ nghị lực và sự tin tưởng để vượt lên trên
những bắt bớ, cấm cách và khổ giá trong cuộc sống hằng ngày của mình.
Vâng, Sứ Điệp Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại là Tin Mừng Cứu Rỗi, chứ
không phải sự đau khổ và chết chóc. Đây không phải là một điều mơ ước
cầu mong, nhưng là một sự khẳng định chắc chắn.
Sự cần thiết của đức tin
Chân lý của sự khẳng định này đã được
chứng minh một cách rõ ràng và cụ thể qua cuộc sống của các vị thánh
nhân, những người nhờ có được đức tin Kitô giáo vững chắc và sâu xa nên
đã có thể kiên cường gánh chịu mọi thứ bệnh tật nặng nề và nan y hay
những cơn đau khổ triền miên trong cuộc sống. Thái độ luôn biết vui vẻ
và thanh thản đón nhận mọi tình huống và hoàn cảnh vui buồn của cuộc
sống với một lòng tin tưởng phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của
thánh ý Thiên Chúa là cả một kho tàng vô cùng quý báu, vượt trên tất cả
mọi sự giàu có, mọi danh vọng, tiền bạc và các thứ của cải đời này. Đây
là một điều mà chúng ta có thể khám phá thấy khi đọc và tìm hiểu tiểu sử
của bất cứ vị thánh nào. Các thánh là những người đã dành trọn vẹn cuộc
đời mình cho đức tin vào Thiên Chúa, đến nỗi không một ai có thể lấy
bất cứ vinh hoa phú quý nào của thế gian để đổi lại đức tin sắt đá ấy
được. Các thánh thà chịu mọi đau khổ và cả việc hy sinh chính mạng sống
mình, chứ không để mất đức tin Kitô giáo của mình. Các cuộc tử đạo anh
hùng của hàng ngàn, hàng vạn Kitô hữu trên khắp thế giới trong suốt hơn
hai ngàn năm lịch sử Giáo Hội mãi cho tới ngày nay, cách riêng máu hồng
của trên ba trăm ngàn Kitô hữu Việt Nam, tổ tiên kiên cường và anh dũng
của chúng ta, đã đổ ra vì đức tin là một minh chứng hùng hồn và cụ thể
nhất.
Qua đó chúng ta đã tìm gặp được câu trả
lời thoả đáng cho thắc mắc đã được đặt ra là đức tin mang lại cho ta
điều gì? Tự bản chất, đức tin là cả một thành đạt to lớn của nhân vị:
Đức tin trợ giúp chúng ta có đủ nghị lực để thắng vượt được những thử
thách khó khăn, biết can đảm và bình tĩnh đối mặt với những đau khổ
không thể tránh né được trong cuộc sống và rồi biết sáng suốt tìm cách
loại bỏ hay vượt lên trên chúng để sống một cách an bình và thanh thản.
Chính đức tin Kitô giáo giúp chúng ta
nhìn thấy được hình ảnh Thiên Chúa trong mọi anh chị em đồng loại của
mình để hết lòng yêu thương, giúp đỡ và tôn trọng họ, kể cả những anh
chị em đau ốm tật nguyền, những người mà các đồ đệ của chủ thuyết thực
dụng quá khích và duy vật đánh giá là vô dụng, hay những anh chị em đồng
loại đang còn được cưu mang trong dạ mẹ, tức những thai nhi vô sinh
chưa được cất tiếng khóc chào đời, vì tất cả họ cũng đều được kêu mời
sống cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu như chúng ta.
Chỉ những Kitô hữu chân chính, tức những
người có đức tin vững vàng vào Thiên Chúa, mới có thể nhận chân được
nhân vị và phẩm giá con người một cách đúng đắn. Cùng với Giáo Hội, họ
cương quyết phản đối và tẩy chay tất cả những hành động làm thương tổn
đến phẩm giá hay sinh mạng đồng loại, như việc phá thai, tội ác sát hại
các thai nhi vô sinh cũng như hành động trợ tử, tức việc giúp cho các
bệnh nhân chết nhanh và chết nhẹ nhàng, v.v… Vì đức tin dạy cho họ biết
xác tín được một cách chắc chắn rằng sự sống và sự chết của con người
hoàn toàn thuộc về một mình Thiên Chúa Tạo Hóa mà thôi; ngoài Thiên Chúa
ra, không có bất cứ ai khác có quyền quyết định trên sự sống và sự chết
của người khác. Trong khi đó, những người vô thần hay những người sống
xa rời đức tin thì chỉ biết tìm kiếm vinh quang và lợi lộc vật chất như
mục đích tối hậu của cuộc sống, chứ không hề quan tâm tới hay biết tôn
trọng nhân phẩm con người. Đó chính là mối đe dọa nguy hiểm cho cả xã
hội nhân loại nói chung và mạng sống mỗi cá nhân nói riêng, vì một khi
danh dự và quyền lợi vật chất của những người ấy bị đe dọa, thì họ sẵn
sàng thực hiện bất cứ hành động nào, miễn sao bảo vệ được quyền lợi của
họ, kể cả những thủ đoạn vô nhân đạo như tội ác sát hại đồng loại của
mình, những người đang sống và những thai nhi vô sinh.
Hoa quả cụ thể của đức tin
Dưới ánh sáng đức tin, phẩm giá cao quý
và bất khả xâm phạm của con người mới được nhận chân và được tôn trọng
một cách đúng đắn và đầy đủ. Một khi nền tảng tôn giáo, tức nền tảng đức
tin bị sa sút và bị lung lay, thì mọi trật tự và nền luân lý đạo đức
của xã hội tất nhiên sẽ bị xáo trộn và chao đảo tận gốc. Dĩ nhiên, trên
thực tế ít ai muốn hay biết nhìn nhận được sự tương quan trọng yếu ấy.
Bình thường người ta luôn lấy kinh tế làm chuẩn mực hay làm yếu tố chính
trong việc đánh giá các biến chuyển của xã hội. Chẳng hạn, ở đâu nền
kinh tế phát triển thì cuộc sống xã hội an bình hạnh phúc, còn ở đâu nền
kinh tế xuống dốc hay sa sút, thì cuộc sống xã hội sẽ mất thăng bằng,
sẽ nảy sinh ra đói nghèo và từ đó lại nảy sinh ra các tệ đoan xã hội
khác.
Nhận định như thế là không sai, nhưng
chưa đầy đủ. Tình hình kinh tế đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn
định hay gây ra bất an trong xã hội, nhưng một mình yếu tố kinh tế mà
thôi thì chưa đủ, yếu tố tôn giáo, yếu tố của sự xác tín tâm linh, tức
yếu tố đức tin tôn giáo cũng đóng một vai trò vô cùng cần thiết mang
tính cách quyết định trong vấn đề an sinh xã hội. Bởi vì, nếu những con
người sống trong một xã hội mà thiếu đi sự xác tín tôn giáo, thiếu đi
điểm tựa tâm linh; hay nói đúng hơn, thiếu đi sự soi sáng và hướng dẫn
của đức tin, thì dù xã hội ấy đang được hưởng một nền kinh tế phồn
thịnh, cũng vẫn rất khó lòng tránh được những tệ đoan và những tội phạm,
nếu không muốn nói là các tệ đoan xã hội càng gia tăng hơn.
Đó là điều đã được chứng minh rõ rệt
trong thực tế và từng được các nhà lãnh đạo cộng sản cao nhất của Việt
Nam nhìn nhận: Ở đâu có đa số người Công giáo nói chung và đa số người
Công Giáo đạo đức nói riêng sinh sống, thì ở đó an sinh xã hội được bảo
đảm, ít tệ đoan xã hội xảy ra. Trái lại, ở đâu tuy tình hình kinh tế
phát triển tốt, nhưng đời sống tinh thần và nhất là đời sống tâm linh
tôn giáo bị băng hoại hay bị sa sút, thì sẽ xảy ra đủ mọi thứ tệ đoan xã
hội, kể cả các tội ác. Nếu những kẻ tự vỗ ngực cho mình là vô tôn giáo
hay vô thần và trên thực tế họ cũng sống như thế, thì đó là những kẻ vô
phúc và bất hạnh nhất, dù cho họ thành công trong cuộc sống, dù cho họ
nhiều tiền lắm bạc hay được nổi danh trong lãnh vực này trong lãnh vực
nọ. Bởi vì, những kẻ vô thần “chính hiệu” ấy sẽ hoàn toàn không
bao giờ tìm gặp được ý nghĩa đích thực của đời mình, và tận trong đáy
lòng sâu thẳm, họ luôn cảm thấy nghèo nàn và trống rỗng, một sự trống
rỗng mà các của cải và danh vọng trần thế dư dật của họ không thể lấp
đầy được.
Trong khi đó, những người biết đặt niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa thì được lời lãi gấp trăm ở đời này và còn “có được đời sống vĩnh cửu làm gia nghiệp”
như Chúa đã khẳng định với Tông đồ Phêrô mà chúng ta vừa trích dẫn ở
phần trên. Ở điểm này, Blaise Pascal, nhà triết học và toán học thời
danh người Pháp, đã phát biểu rất chí lý, đáng cho ta phải suy nghĩ: “Một
điều quan trọng mang tính cách quyết định cho cả cuộc đời con người là
phải nhận thức được điều này là linh hồn mình bất tử hay không bất tử.”(*)
Nếu con người đã xác tín được rằng linh
hồn mình bất tử, thì đồng thời con người cũng cần phải nhìn nhận được
chân lý khách quan này nữa là cuộc sống thể xác đời này chỉ tạm bợ và
một ngày nào đó sẽ vĩnh viễn qua đi để bước vào cuộc sống mới, cuộc sống
trường cửu. Nếu thế, tất cả mọi của cải và danh vọng cao quý nhất thuộc
cuộc sống đời này hoàn toàn chỉ là phương tiện để con người sử dụng bao
lâu còn sống trên cõi đời này mà thôi, còn khi xuôi hai tay hai chân
nằm xuống, thì dù có muốn hay không, con người cũng phải bỏ lại tất cả,
chứ không thể mang theo được bất cứ điều gì, kể cả những điều thân
thương gần gũi nhất của mình, và phải ra đi với hai bàn tay trắng. Điều
đó muốn nói rằng con người cần phải biết thiết kế cuộc sống đời này của
mình một cách hợp lý, hầu sau cuộc sống tạm bợ này con người sẽ không bị
thua thiệt và mất mát, nhưng là được hạnh phúc chân thật. Để thực hiện
được mục đích quan trọng tối hậu ấy, chính đức tin Kitô giáo là sao mai
sáng chói hướng dẫn từng bước đường của con người đang tiến về cuộc sống
vĩnh cửu.
Nhờ đức tin vào Đức Kitô soi sáng, con
người luôn biết nỗ lực và cố gắng yêu chuộng và tìm kiếm những giá trị
tồn tại trường cửu hơn những giá trị tạm thời và sẽ phai mờ theo thời
gian. Nói cách khác, dưới ánh sáng đức tin Kitô giáo, con người biết
khôn ngoan sáng suốt yêu chuộng và tìm kiếm các giá trị siêu nhiên muôn
đời bền vững, chứ không chạy theo những giá trị vật chất chóng qua đời
này. Đức tin Kitô giáo luôn nhằm đạt tới mục đích, chứ không phải chiếm
hữu phương tiện, nhằm thỏa mãn được khát vọng tìm kiếm sự chân thật vĩnh
cửu, chứ không phải dừng lại nơi những an ủi tạm bợ chóng qua. Chính
thánh Phaolô đã cảnh báo các tín hữu Giáo Đoàn Cô-rin-thô xưa: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”
(1Cr 15,19). Đối mặt với sự giới hạn ngắn ngủi của cuộc sống đời này,
với sự chóng qua của các giá trị trần thế, đức tin Kitô giáo mang đến
cho ta một niềm hy vọng vượt lên trên mọi biên giới của cuộc sống và sự
chết, và niềm hy vọng ấy soi sáng, hướng dẫn và đỡ nâng ta ngay trong
cuộc sống chóng qua đời này, để ta tìm đạt tới được tương lai bất diệt
của đời mình trong cuộc sống vĩnh cửu.
Bởi vậy, khi con người đánh mất niềm tin
vào tương lai đầy hy vọng ấy là con người đánh mất luôn định hướng đời
mình, trở nên trống rỗng, vô vọng và sẽ bị tinh thần thế tục lôi cuốn và
thôi thúc chạy theo tìm kiếm những hưởng thụ các thú vui chóng qua đời
này, để rồi sau cùng chỉ còn trơ trọi hai bàn tay trắng, mọi sự đều đã
tuột khỏi tầm tay từ bao giờ. Đây là tình trạng bất hạnh mà thánh Phaolô
đã mỉa mai viết. “Nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì chúng ta cứ ăn cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết hết.” (1Cr 15,32b).
Đức tin Kitô giáo không chỉ hệ ở chỗ chu
toàn các giới răn và các luật lệ như một số người nghĩ tưởng, nhưng còn
mang lại sự an bình, sự thanh thản và niềm hoan lạc nội tâm khôn sánh
qua sự tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào tình yêu vô biên của Thiên
Chúa. Đây là sự thật mà các Kitô hữu chân chính luôn được nếm thử và
trải nghiệm trong chính cuộc sống hằng ngày của họ. Nếu một ai đó còn
chút nghi ngờ về sự thật ấy, hãy mở đọc tiểu sử của bất cứ vị thánh nào
của Giáo Hội, chắc chắn họ sẽ cảm nhận được điều đó một cách rõ ràng, vì
ở đó hạnh tích và đời sống các thánh thường được trình bày một cách
trung thực và đáng tin tưởng. Khi được hỏi: trong năm đức tin, người tín
hữu Công Giáo cần phài làm gì? Một vị Giám Mục người Mỹ đã trả lời: Một
trong các điều cần phải làm, là cầm đọc tiểu sử một vị thánh của Giáo
Hội. Dĩ nhiên, trong những trình bày về đời sống các thánh, thì bên cạnh
những trình bày nghiêm chỉnh và phù hợp với sự thật, còn có những trình
bày mang tính cách huyền thoại bao gồm những câu chuyện giả tưởng, cốt
thêu dệt cho cuộc đời các thánh thêm hấp dẫn hơn, nhưng lại không đúng
sự thật. Đó là điều nguy hiểm, xúc phạm đến sự thật và như thế xúc phạm
đến các thánh, chúng ta cần phải tỉnh táo để phân biệt và loại bỏ.
Kết luận
Nói tóm lại, trước thắc mắc “đức tin mang lại cho ta những gì?” Chúng
ta có thể trả lời một cách bộc phát và đơn giản rằng đức tin mang lại
cho con người hơi thở của cuộc sống tinh thần. Cũng như cuộc sống thể
xác nếu thiếu hơi thở thì sẽ chết, cuộc sống tinh thần cũng vậy, nếu
thiếu đức tin thì sẽ trở nên nghèo nàn, èo ọt, khô cằn và thiếu sức
sống. Những giá trị cao quý mà đức tin mang lại cho con người thì vô
giá, không thể lấy tiền bạc của cải đời này để so sánh hay đổi chác
được.
Đức tin mang đến cho con người tình yêu
thương và sự trung tín đích thực, sự bình an và niềm hoan lạc nội tâm
bền vững, sự thỏa mãn và sức mạnh tinh thần chân chính. Đó là những giá
trị tinh thần quý báu mà mỗi Kitô hữu sống trung thành với đức tin của
mình đều có thể chứng nhận được. Một người không có đức tin hay đã tự
đánh mất đi đức tin ấy, thì sẽ không bao giờ có thể cảm nghiệm được
những giá trị cao quý bất khả nhượng ấy. Và còn hơn hế nữa, người ấy sẽ
thiếu đi những định hướng chủ yếu và cần thiết của cuộc sống, và sẽ tựa
như một người đang phải đứng chơi vơi giữa ngã ba đường và không biết
phải chọn lối nào, phải đi về đâu.
Vâng, đức tin mang lại cho các tín hữu
vô vàn ân sủng thiêng liêng và các lợi ích tinh thần khôn sánh. Khi nhìn
lại những trải nghiệm đầy đen tối và đau buồn của những ngày tháng
trong quãng đời đã qua, các Kitô hữu cao niên từng trải thường chân
thành tâm sự: “Những lúc cực kỳ gian nan ấy mà giá thử không có đức tin, thì tôi đã không thể đứng vững và tồn tại cho đến ngày hôm nay được.”
Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo mang lại
rất nhiều giá trị và lợi ích khôn sánh như thế chỉ cho những ai trung
thành sống và thực hành đức tin ấy trong cuộc sống hằng ngày của mình mà
thôi, vì một đức tin không có việc làm, tức một đức tin không được cụ
thể hóa ra bên ngoài bằng những hành động tốt hay việc thiện thực tiễn,
thì đó chỉ là một đức tin thuần lý thuyết, một đức tin chết mà thôi (x.
Gc 2,26).
Để kết thúc những dòng này, tôi xin mượn
phép kể lại cho quý bạn đọc nghe một câu chuyện rất đáng ngẫm nghĩ. Số
là một ngày kia có một vị khách du lịch từ Âu châu đến thăm chân phước
Mẹ Têrêxa ở Calcutta/Ấn Độ. Hằng ngày ông trông thấy Mẹ Têrêxa không
chút mệt mỏi rảo khắp các hang cùng ngõ hẻm, đi vào các khu nhà ổ chuột
nghèo nàn và dơ bẩn của thành phố Calcutta để thu nhặt các người đang
hấp hối trong một tình cảnh vô cùng thương tâm và khốn cùng, và đưa về
nhà để giúp cho họ có được một cái chết xứng đáng với nhân phẩm, vị
khách kia đã nói với Mẹ Têrêxa: “Nếu có ai đó hứa cho tôi một triệu đô-la để thuê làm những công việc Mẹ làm, chắc tôi không thể nào làm được.” Nghe thế, Mẹ Têrêxa đã không cần phải đắn đo suy nghĩ lâu, nhưng đã trả lời vị khách ngay lập tức: “Tôi cũng vậy.”
Câu trả lời vắn tắt của Mẹ Têrêxa chỉ có ba từ, nhưng lại thâm thúy, bao hàm đầy đủ tất cả. Qua câu trả lời “Tôi cũng vậy”,
Mẹ Têrêxa muốn nói cho vị khách kia biết rằng nếu chỉ vì một số tiền
khổng lồ như thế, một triệu đô-la, chứ không phải vì đức tin vào Đức
Kitô, thì chắc chắn Mẹ đã không đủ can đảm và nghị lực để làm được công
việc dơ dáy và cực kỳ nguy hiểm cho sức khỏe cũng như cho cả tính mạng
như thế được. Đức tin Kitô giáo dạy cho Mẹ biết rằng Thiên Chúa yêu
thương Mẹ vô cùng, như thể Mẹ là đứa con cưng duy nhất của Người, và
Người cũng muốn Mẹ phải biết đem san sẻ tình yêu thương ấy cho những
người anh chị em đồng loại khác nữa, nhất là những anh chị em đang đau
khổ và bất hạnh.
Chỉ đức tin Kitô giáo mới là động lực
chính và là nguồn sức mạnh bất tận đã giúp Mẹ Têrêxa có đủ can đảm và
nghị lực để đi tìm kiếm những anh chị em đồng loại bất hạnh và khốn cùng
ấy, và đón rước họ về nhà mình để tạo cho họ có điều kiện chết một cách
xứng với nhân phẩm mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Vì chính đức tin đã dạy
cho Mẹ biết rằng, tất cả mọi người, kể cả những người nghèo đói, đau ốm
bệnh tật, đều là con cái đầy yêu thương của một Cha Trên Trời và đã
được cứu chuộc bằng giá máu của Con Một Người, và như thế tất cả họ đều
là những người anh chị em của Mẹ.
Quả thật, đức tin vô cùng cao quý siêu
phàm, người ta không thể lấy tiền bạc và của cải trần gian này để so
sánh hay đổi chác được. Một người có được đức tin Kitô giáo sâu xa và
kiên cường cũng tựa như một người đang chiếm hữu được một viên ngọc vô
cùng quý giá hay như một thửa ruộng đang chất chứa dưới lòng đất của
mình một kho báu vậy, mà ai khám phá ra được cũng sẽ đi bán hết gia tài
nhà mình để tậu cho bằng được thửa ruộng ấy (x. Mt 13,44-46).
________________
Lm. Nguyễn Hữu Thy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét